Trên thực tế, các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới thường có các chương về lao động và đây chính là một trong những vấn đề khó đi đến thống nhất nhất khi đàm phán các hiệp định này.
Để chặn cuộc đua xuống đáy
Ông Chang-Hee Lee, Giám đốc Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam, là người đã theo dõi sát sao tất cả các phiên đàm phán các FTA thế hệ mới của Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm FTA Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Theo ông Lee, một trong những “điểm nghẽn” lớn nhất trong các FTA thế hệ mới liên quan tới vấn đề lao động, thậm chí, chỉ vì vấn đề lao động mà nhiều khi các nước thành viên không thể tiến tới thống nhất hiệp định.

Tại sao vấn đề lao động lại trở nên khó khăn như vậy trong các hiệp định mang tính thương mại?
Theo ông Lee, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành lập năm 1995 gần như không đề cập gì tới tiêu chuẩn lao động. Tại thời điểm đó, có một làn sóng dịch chuyển nhà máy từ các quốc gia phát triển như Mỹ, châu Âu sang Hàn Quốc, đến Trung Quốc, rồi Việt Nam... Cứ như vậy, các nhà máy dịch chuyển để tận dụng nguồn lao động giá rẻ tại các nước đang phát triển.
Trong quá trình này, điều kiện lao động ngày càng bị hạ thấp, có những thời điểm, lương của lao động chỉ được trả ở mức 10 đô la Mỹ/tháng. Ở thời điểm đó, các quốc gia trên thế giới đã thảo luận rất nhiều về vấn đề này và coi đây là “cuộc đua xuống đáy”. Từ đó xuất hiện ý kiến cho rằng nên đưa tiêu chuẩn lao động vào các FTA thế hệ mới.
Hiệp định CPTPP cùng với EVFTA có đặc điểm là nhấn mạnh nhiều đến quyền lao động. Giả sử quốc gia A (nước phát triển hơn) và quốc gia B (kém phát triển hơn) có quan hệ thương mại. Việc mặt bằng lương của người lao động ở nước A cao hơn nước B là chuyện dễ hiểu bởi nó phản ánh mức độ năng suất và phát triển của họ. Đây không phải là cạnh tranh không công bằng.
“Tuy nhiên, nếu nước B cho phép lao động chưa đủ tuổi tham gia sản xuất hàng hóa xuất khẩu trong điều kiện làm việc không đảm bảo với mức lương thấp không thể chấp nhận được, trong khi nước A cấm việc này, thì đây có thể coi là cạnh tranh không công bằng, đi ngược lại các quy tắc đã thống nhất trên toàn cầu”, ông Lee nói.
Các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA đều yêu cầu các nước tham gia phải thông qua và duy trì các quyền được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của ILO trong pháp luật, thể chế và thông lệ của họ.
“Chương 19 về lao động của Hiệp định CPTPP dựa trên Tuyên bố năm 1998 của ILO. Chương này cũng đưa ra mối liên hệ giữa việc thực hiện Tuyên bố năm 1998 của ILO với các điều kiện thương mại trong một khuôn khổ thời gian nhất định, bao gồm cả các biện pháp trừng phạt có thể áp dụng”, ông Lee nói.

Theo bà Đỗ Quỳnh Chi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quan hệ lao động, các FTA thế hệ mới yêu cầu các quốc gia tham gia phải điều chỉnh luật pháp quốc gia cho phù hợp với tám công ước của ILO.
Việc thông qua các công ước này trên thực tế không khó, bằng chứng là Indonesia đã thông qua tám công ước này từ lâu, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc quan hệ lao động của nước đó được đưa lên một tầm phát triển mới, tốt hơn cho người lao động. Những nước chưa phê chuẩn các công ước cốt lõi này không có nghĩa rằng điều kiện lao động của họ tồi tệ. Ví dụ như Mỹ, họ mới chỉ phê chuẩn 3/8 công ước cốt lõi nhưng quan hệ lao động của họ rất phát triển. Mỹ cũng chính là nước đã “ép” Việt Nam phê chuẩn các công ước quốc tế này.
“Vì vậy, phê chuẩn công ước không mang lại ngay lập tức tiến triển gì trong quan hệ lao động nhưng nó có tác dụng trong việc điều chỉnh luật quốc gia cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế”, bà Chi nói.
Hiện nay không chỉ Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới bị vướng vì luật pháp quốc gia có nhiều điểm chưa hoàn toàn tương thích với luật pháp quốc tế.
Ví dụ, Hàn Quốc, một quốc gia phát triển, nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc phê chuẩn công ước 105 về lao động cưỡng bức do các cáo buộc của cộng đồng quốc tế về việc sử dụng lao động công ích, lao động trong quân đội...

Hiện tại Việt Nam đã phê chuẩn 5/8 công ước cơ bản của ILO. Các công ước Việt Nam chưa phê chuẩn bao gồm công ước 87 (Tự do liên kết), công ước 98 (Quyền thương lượng tập thể) và 105 (Chống lao động cưỡng bức). Việc tham gia các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA có nghĩa là Việt Nam sẽ phải cân nhắc thông qua ba công ước còn lại và lồng ghép vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trước đây, Việt Nam có một thỏa thuận song phương với Mỹ, trong đó có những yêu cầu rất chi tiết như sửa điều khoản nào trong luật hiện nay, thêm bao nhiêu thanh tra lao động... và có mốc thời gian cụ thể để thực hiện cam kết đó. Thậm chí, còn có cả chế tài nếu Việt Nam không thực hiện đúng cam kết.
Trong khi đó, CPTPP và EVFTA không yêu cầu chi tiết như vậy. Những FTA này chỉ yêu cầu Việt Nam và các quốc gia thành viên khác phải tuân thủ công ước lao động cốt lõi của ILO và phải sửa luật pháp quốc gia sao cho phù hợp.
“Còn hiểu thế nào là phù hợp thì Hiệp định CPTPP và EVFTA không quy định chi tiết. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam vì không hẳn việc triển khai quyền lao động cốt lõi theo cách mà Việt Nam cam kết với Mỹ đã là hay trong bối cảnh hiện nay”, bà Chi nói.
Cần đẩy nhanh hoàn thiện pháp luật
Theo bà Chi, hội nhập quốc tế với các FTA thế hệ mới sẽ mang lại nhiều việc làm hơn nhưng chưa chắc đã đem lại việc làm tốt hơn, với thu nhập đủ sống trong điều kiện an toàn hơn cho người lao động. Do đó, để đảm bảo quan hệ lao động và điều kiện lao động tốt hơn thì bản thân cải cách nội bộ trong toàn bộ hệ thống lao động của Việt Nam phải tiếp tục, thậm chí phải đẩy nhanh hơn, nếu không thì lực lượng thị trường quá mạnh, đẩy điều kiện lao động càng ngày càng đi xuống. Khi đó, lợi ích mang lại từ FTA này đại đa số sẽ chảy vào túi các nhãn hàng nước ngoài, thậm chí các nhà máy của Việt Nam cũng được hưởng lợi rất ít.
Ông Chang-Hee Lee cho biết Chính phủ Việt Nam đang thực hiện việc sửa đổi Bộ luật Lao động theo hướng phù hợp với những yêu cầu đặt ra trong Hiệp định CPTPP và EVFTA, đặt mục tiêu sẽ trình Quốc hội bản dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi vào tháng 5-2019.
Việc sửa đổi các chương về quan hệ lao động có vai trò mấu chốt đối với không chỉ Hiệp định CPTPP và EVFTA, mà đó còn là mục tiêu tổng quát hiện đại hóa cách thức quản lý lao động trong thời kỳ hiện đại.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, điều kiện cho người lao động, bao gồm tiền lương, được quyết định thông qua đối thoại xã hội và thương lượng tập thể giữa đại diện người lao động và người sử dụng lao động, được trao quyền và điều chỉnh bởi các luật và quy định liên quan đến quan hệ lao động. Đây là điểm yếu trong Bộ luật Lao động hiện hành, do đó, theo ông Lee, cần phải cải thiện để phù hợp với Tuyên bố năm 1998 của ILO.
Ngoài ra, còn nhiều vấn đề quan trọng sẽ ảnh hưởng tới doanh nghiệp, người lao động và xã hội, bao gồm hợp đồng lao động, phân biệt đối xử, tuổi nghỉ hưu, tiền lương và thời giờ làm việc.
Một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng là về phạm vi áp dụng của Bộ luật Lao động. Liệu có phải bộ luật này chỉ áp dụng cho người lao động và người sử dụng lao động ở khu vực kinh tế chính thức? Còn những tài xế Grab và Uber thì sao? Việt Nam hiện có một lực lượng lao động hơn 53 triệu người; trong đó 22 triệu người làm các công việc tự làm hoặc là lao động gia đình không được trả lương, phần lớn thuộc khu vực kinh tế phi chính thức, và 23 triệu người là lao động làm công ăn lương. Vậy bao nhiêu trong số họ sẽ nằm trong phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Lao động?
“Đây có lẽ là câu hỏi đầu tiên cần được trả lời”, ông Lee nói và cho biết: “Trong bối cảnh đó, tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia đầy đủ của công đoàn, đại diện doanh nghiệp và các bên liên quan khác trong suốt quá trình sửa đổi Bộ luật Lao động”.
Theo Thesaigontimes.vn